Bạn đang ở đây

Hạ Kali máu có thể gây liệt cơ

Kali là nguyên tố quan trọng trong máu. Tăng hay giảm kali huyết đều gây ra những căn bệnh nguy hiểm, trong đó có liệt cơ. Bệnh liệt cơ do hạ kali huyết thông thường tự khỏi, tuy nhiên về lâu dài sẽ làm cơ lực yếu dần, ảnh hưởng lớn đến sự vận động của người bệnh.

Kali máu và bệnh liệt cơ

Kali máu là nguyên tố vi lượng potassium, thiếu hay thừa potassium đều gây nên những căn bệnh khác nhau. Khi mắc một số bệnh lý như bỏng, chảy máu nhiều, suy thượng thận... potassium rất dễ rời khỏi tế bào. Potassium giảm nhiều khiến sodium (Natri) thấm vào trong tế bào, dẫn truyền kích thích co cơ tim, co cơ trơn và hoạt động hiệu quả của hệ thần kinh thực vật.

Bệnh liệt chu kỳ do rối loạn kali trong máu thường do nguyên nhân di truyền (rối loạn nhiễm sắc thể). Bệnh thường gặp ở người trẻ, dưới 45 tuổi. Các đợt liệt thường xảy ra lúc nghỉ ngơi, khi đang ngủ, hầu như không bao giờ xảy ra khi đang làm việc với cường độ bình thường. Chứng yếu cơ xuất hiện từng đợt ngắn, triệu chứng đi kèm không rõ ràng, khó nhận biết cụ thể nên rất khó chẩn đoán bởi đặc điểm của bệnh là thường tự khỏi. Nếu có liệt cơ hô hấp thì khả năng tử vong có thể xảy ra khi người bệnh không được cấp cứu kịp thời.

Thông thường trong các cơn liệt, người bệnh bao giờ cũng tỉnh táo. Giai đoạn đầu, ngoài thời kỳ liệt “chợt đến, chợt đi”, cơ vẫn bình thường, nhưng sau nhiều năm cơ lực yếu dần đi. Có hai thể chu kỳ do rối loạn kali huyết: Liệt do hạ kali huyết và do tăng kali huyết. Hai bệnh này điều trị hoàn toàn trái ngược nhau, nên cần phải làm xét nghiệm định lượng kali huyết mới được dùng thuốc.

chuối

Chuối - loại quả giàu kali

Liệt cơ do hạ kali máu có nguy cơ tử vong

Liệt chu kỳ do hạ kali huyết chủ yếu do di truyền, nam giới hay mắc phải và nặng hơn nữ giới. Bản chất của bệnh là sự rối loạn kênh canxi của cơ vân và làm thay đổi tính kích thích của cơ. Dấu hiệu lâm sàng của bệnh: Liệt có tính chất chu kỳ (hay lặp lại), bệnh nhân không chải đầu được, khó bước lên bậc, khi nằm không thể tự trở mình. Rất hiếm khi liệt các cơ mắt, cơ hô hấp, nhưng đã mắc thì rất nặng, có thể gây tử vong. Phản xạ gân xương giảm nhẹ, nhưng phản xạ riêng của cơ bao giờ cũng mất (gõ vào cơ liệt không có hiện tượng giật cơ).

Đây là dấu hiệu rất quan trọng để phân biệt với liệt do thần kinh ngoại biên. Tần số các cơn thay đổi theo ngày và năm, mỗi cơn kéo dài từ 1- 4 giờ, có khi kéo dài tới 1 ngày hoặc hơn. Xét nghiệm trong cơn liệt thấy giảm kali huyết.

Nồng độ kali máu giảm trong cơn liệt có thể là do sự mệt mỏi của cơ. Ngoài ra, người ta còn thấy vai trò của insulin và muối ăn trong cơ chế giảm kali máu. Chính những cơ chế trên, trong thực thế, dùng muối kali liều cao cũng không có tác dụng dự phòng cơn liệt.

Phải xét nghiệm Kali máu để phòng bệnh

Để phòng bệnh, nên tránh những yếu tố gây cơn liệt như nhiễm lạnh, vận động quá sức, cần sử dụng nhiều thức ăn giàu kali. Nếu có triệu chứng liệt cơ cần nhanh chóng xét nghiệm kali máu để dự phòng và điều trị. Điều trị tốt nhất là bù kali bằng đường uống hoặc tiêm khi xảy ra cơn. Lưu ý là không dùng kali với các dung dịch mặn, ngọt, vì có thể làm giảm nồng độ kali trong huyết tương.

Theo HPGĐ

people like INLOOK.VN fanpage